Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

CNTT trong bảo quản, khai thác tài liệu lưu trữ

Hiện nay, sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật công nghệ thông tin đã hỗ trợ đắc lực cho nhu cầu truyền tin và khai thác thông tin dữ liệu của nhân loại. Trong đó, hệ thống thông tin điện tử Intenet được mọi người quan tâm sử dụng nhiều nhất nhờ tính thông dụng trong việc giao tiếp, tìm kiếm và đọc thông tin bằng tính năng ưu việt của các phần mềm ứng dụng về quản lý, số hóa tài liệu.
Trên hệ thống thông tin điện tử Intenet không chỉ diễn ra sự giao tiếp, phổ cập thông tin mà còn hình thành nên một thị trường thông tin hàng hóa rộng lớn, nhiều tiềm năng. Bên cạnh đó, do yêu cầu của quá trình hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ, việc công khai minh bạch các văn bản, chính sách của nhà nước đến mọi đối tượng trở thành vấn đề bắt buộc; Đặc biệt việc nâng cao chất lượng thông tin phục vụ nhu cầu nghiên cứu quyết định đầu tư, sản xuất cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước trên lĩnh vực quản lý nhà nước, kinh tế, văn hóa, xã hội, lịch sử truyền thống cần phải được chú trọng; Một trong những nguồn thông tin được các nhà đầu tư quan tâm nhiều nhất là thông tin từ tài liệu lưu trữ.

Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2013

Những hình ảnh cảm động tại kỳ thi đại học đợt 2,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên

Những hình ảnh cảm động tại kỳ thi đại học đợt 2,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên
Đó là giọt nước mắt của nữ sinh khi cổng trường khép lại do em đến muộn, cảnh bố mẹ ngồi trong mưa chờ con, chiến sĩ cảnh sát đưa thí sinh đến trường hay nụ cười của những tình nguyện viên xinh đẹp.
 Chờ con trong mưa. Đợt thi thứ 2 thời tiết Hà Nội dịu hơn với những cơn mưa bất chợt. Cũng vì vậy mà các bậc phụ huynh đã phải đứng, ngồi trong mưa hàng giờ đồng hồ, hướng ánh mắt về phía cổng trường để ngóng trông con. Ảnh Nguyễn Hoàn. 
Mẹ nắm tay con trên đường đến trường thi. Ảnh Lê Hiếu.
Một hình ảnh rất quen thuộc luôn khiến bất kỳ thế hệ học sinh nào cũng chạnh lòng. Đó là những gương mặt, cánh tay của mẹ cha bám vào chấn song hướng vào trường thi. Ảnh Lê Quân.
Sự rạng rỡ trên gương mặt thí sinh - ni cô Nguyễn Thùy Linh, tu ở chùa Thiên Ân, Quận 7, TP.HCM. Thùy Linh thi vào khoa Tâm lý, ĐH KHXH&NV. Ảnh Như Quỳnh.
Sự tươi tắn của em Phạm Thị Yến, (Đông Hưng, Thái Bình) tại phòng thi. Cha của Yến cho biết sau khi thi tốt nghiệp đã đưa con lên Hà Nội để ôn nhưng trên đường từ lên Hà Nội thì bị taxi đâm khiến em bị gãy chân. Ảnh An Hoàng.
 
Giọt nước mắt của thí sinh Nguyễn Thị Hồng Nhung khi em không vào được phòng thi vì đi muộn. Ảnh: Giáo dục thời đại. Tại đợt 2, có 199 thí sinh đã bị đình chỉ, đa số vì mang điện thoại vào phòng, một số ít vì đi muộn.
Sáng 9/7, thiếu uý Lê Xuân Linh – Đội CSGT số 3 Hà Nội chở em Phạm Văn Duy đến trường thi khi thí sinh này bị mất phương hướng. Sau khi thi xong, vị CSGT này cũng đến đón và chở Duy về tận nhà trọ.
Thí sinh Lê Thanh Lê cùng  thiếu uý Nguyễn Anh Tuấn và thượng sĩ Bùi Xuân Điệp sau khi hai chiến sĩ CSGT này đưa sĩ tử đến trường thi vì xe của em chết máy vào sáng 9/7.
 Anh Thắng ở Thanh Sơn, Phú Thọ may mắn được nhận 2 suất cơm từ các bạn tình nguyện viên trước cổng ĐH KHXH&NV Hà Nội. "Xuống Hà Nội khó tìm được quán ăn ngon, chi phí đi lại đắt đỏ nên tôi xin nhận 2 suất cơm ở đây, vừa gần trường, vừa ngon", anh Thắng tâm sự. Ảnh Lê Hiếu.
Cử chỉ ân cần của một sinh viên tiếp sức mùa thi đối với thí sinh bên ngoài bến xe Mỹ Đình, trước ngày sĩ tử đến trường làm thủ tục, nghe phổ biến quy chế. Ảnh Nguyễn Hoàn.
Một sinh viên tiếp sức mùa thi nhặt rác để đảm bảo sự sạch đẹp xung quanh trường. Hình ảnh tại ĐH KHXH&NV TP.HCM. Ảnh Như Quỳnh.
Nụ cười tươi tắn trong mưa của những nữ sinh tình nguyện tiếp sức mùa thi ở ĐH Ngoại thương Hà Nội. Ảnh Nguyễn Hoàn.
Đội sinh viên tình nguyện hùng hậu của ĐH Công nghiệp TP.HCM tại điểm thi tập trung chụp ảnh lưu niệm sau những ngày làm việc vất vả. Ảnh Lê Quân.

Thư viện công cộng – Nghèo nàn, đơn điệu,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên

Thư viện công cộng – Nghèo nàn, đơn điệu,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên
 Để đưa sách đến gần với công chúng thì cần phải phát triển hệ thống thư viện công cộng (TVCC). Hiện nay, hệ thống TVCC của chúng ta được phủ sóng khắp các tỉnh, thành phố. Tuy nhiên về chất lượng phục vụ cũng như chất lượng đầu sách vẫn là bài toán nan giải.
Chưa thu hút bạn đọc
Nếu nhìn nhận vào thực tế và những con số thống kê thì hiện nay mạng lưới thư viện công cộng của chúng ta phát triển khá rộng, từ trung ương đến các tỉnh, thành phố, quận, huyện, xã phường, bao gồm 63 thư viện cấp tỉnh, 626 thư viện cấp huyện, trên 2.000 thư viện cấp xã đạt chuẩn, gần 10.000 tủ sách/ phòng đọc sách ở cơ sở (chưa kể các mô hình thư viện, tủ sách mang tính chất công cộng do các cơ quan, tổ chức khác quản lý). Vốn tài liệu trong các thư viện công cộng không chỉ được phát triển về số lượng tại các thư viện mà còn được tăng cường bằng biện pháp chia sẻ nguồn lực giữa các thư viện trong toàn hệ thống. Tổng số bản sách hiện có trong hệ thống TVCC ước tính  gần 20 triệu bản. Tính trung bình, mỗi thư viện tỉnh có khoảng 150.000 bản sách, thư viện cấp huyện khoảng 10.000 bản sách và thư viện cấp xã, phường là 2.000 bản sách. Đó là chưa kể tại các xã phường đều có các trung tâm học tập cộng đồng.
Tuy nhiên, theo số liệu điều tra, tỷ lệ đọc sách của người dân trong các TVCC ở nước ta hiện nay rất thấp, chỉ có 0,8 cuốn sách/người dân. Tỷ lệ trung bình về số bản sách tính trên đầu người dân ở các TVCC cũng mới đạt 0,4 cuốn. Vậy tại sao các TVCC vẫn chưa thu hút được đông đảo người dân đến đọc sách?
Điều dễ nhận thấy đó là các sản phẩm dịch vụ của TVCC cũng rất nghèo nàn, đơn điệu, phương thức phục vụ còn thụ động, chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của độc giả. Một nguyên nhân khác nữa là với xu thế phát triển của thời đại thì các kênh thông tin nghe nhìn phát triển với tốc độ nhanh, lấn át văn hóa đọc. Một bộ phận lớn giới trẻ lại quá say mê tìm hiểu trên các thiết bị điện tử thông tin mà không mặn mà với TVCC. Mặt khác, những áp lực trong cuộc sống hàng ngày cũng khiến người dân không dành thời gian cho  đọc sách. Đối tượng người đọc cũng không phủ khắp.
Một thủ thư của Thư viện quốc gia cho biết: Số lượng người đọc là thiếu nhi, học sinh, sinh viên, người về hưu chiếm tỷ lệ rất cao trong khi các đối tượng khác như công nhân, cán bộ kỹ thuật thì ít và người dân làm nghề tự do hầu như không có. Ngay cả GV khi được hỏi về việc đọc sách tại thư viện, họ chia sẻ thực: Do thời gian và cường độ làm việc nhiều nên chủ yếu chỉ đọc sách tham khảo tự mua hoặc ở thư viện trường chứ không có thời gian để đọc các loại sách khác.
Thư viện hiện đại là xu hướng phát triển mới ( Ảnh:Trung tâm Học liệu Đại học Thái Nguyên)
Phải thay đổi cách tiếp cận
Nhìn sang các nước phát triển thì thấy người dân Việt Nam ít đọc sách. Ông Nguyễn Văn Phước – Tổng giám đốc First News chia sẻ:  “Đúng là hiện nay, văn hóa đọc đang bị cạnh tranh dữ dội trước phim ảnh, các trò chơi giải trí, facebook, các trang báo điện tử. Đó là sự phát triển tất yếu của xã hội hiện đại. Tôi đã từng qua các nước Pháp, Đức, Anh, thậm chí ngay cả ở Mỹ - nơi phát triển Iphone - thì ở những bến xe, bãi biển, công viên vẫn có người ngồi say sưa đọc sách. Tôi nghĩ là chắc chắn văn hóa đọc cũng sẽ bị cạnh tranh nhưng nếu như chúng ta có những cuốn sách thực sự sâu sắc, khác biệt thì văn hóa đọc vẫn là lựa chọn hàng đầu. Vấn đề là chúng ta chưa tìm được cách để đưa văn hóa đọc lên thành một thói quen hàng ngày”.
Để nâng cao chất lượng phục vụ bạn đọc cũng như các kỹ thuật hiện đại, bà Nguyễn Thị Thanh Mai, Vụ trưởng Vụ Thư viện (Bộ VH,TT&DL) cho biết: Hai năm trở lại đây, Bộ VH,TT&DL dành 1,6 tỷ đồng để mở các lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức quản lý, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ TVCC từ cấp tỉnh tới cấp xã. Cũng trong khoảng thời gian này, hơn 1.000 điểm thư viện tại 40 tỉnh, thành phố được tiếp nhận dự án "Nâng cao năng lực sử dụng máy tính và truy cập internet công cộng ở Việt Nam". Nhiều đề án, dự án nhằm nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ TVCC đang tiếp tục được nghiên cứu thực hiện. Vì thế, nguồn nhân lực thư viện ở nước ta tuy chưa theo kịp một số nước tiên tiến nhưng về cơ bản, đáp ứng được nhu cầu phát triển của hệ thống TV.
Theo Vụ trưởng Vụ Thư viện thì để bạn đọc hào hứng đến thư viện thì cần phải xây dựng thư viện theo mô hình hiện đại. Đó phải là một trung tâm sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, phải có các dịch vụ bổ trợ phục vụ bạn đọc. Bởi không chỉ là nơi sinh hoạt cộng đồng, thư viện hiện đại cần có các dịch vụ bổ trợ như quầy hàng giải khát, bán đồ lưu niệm, dịch vụ cà phê - sách… Mục tiêu là giúp người dân đến TV có thể vừa đọc sách vừa thư giãn, vừa truy cập internet để tìm kiếm thông tin, nâng cao kiến thức.
Hy vọng khi Dự thảo về luật thư viện được Quốc hội phê duyệt sẽ góp phần tạo điều kiện để người dân đến gần với sách hơn. Nhà nước nên có những chính sách khuyến khích văn hóa đọc và định hướng văn hóa đọc để thu hẹp khoảng cách tri thức vùng sâu vùng xa, những vùng khó khăn với vùng thuận lợi.

Thứ Năm, 27 tháng 6, 2013

Cơ hội du học tại Học viện MDIS - Singapore,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên

Cơ hội du học tại Học viện MDIS - Singapore,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên
hà xuất bản Giáo dục Việt Nam vừa ra mắt sách giáo khoa điện tử Classbook, tích hợp 310 cuốn sách giáo khoa, sách bài tập từ lớp 1 đến lớp 12 cùng hơn 20 ứng dụng bổ trợ cho nhiều môn học. Trong giai đoạn thí điểm, Classbook đã được giới thiệu tại gần 400 trường học tại Hà Nội, TPHCM, Hải Phòng, Đà Nẵng.
Xuất bản sách điện tử là cần thiết
Classbook là máy tính bảng kích thước 8 inch (tương đương cuốn sách) chứa toàn bộ sách giáo khoa và sách bổ trợ của chương trình phổ thông, đúng theo yêu cầu khung chương trình của Bộ GD&ĐT. Thiết bị có thể sử dụng liên tục 8 - 12 giờ. Khác với những cuốn sách in đen trắng thường thấy, sách điện tử này có màu sắc như nguyên bản, có những môn học tương tác bằng bài hát, hội thoại tiếng Anh... giúp học sinh hứng thú hơn.
Ông Ngô Trần Ái - Tổng giám đốc NXB Giáo dục Việt Nam - cho biết: Việc xuất bản sách điện tử là cần thiết của ngành GD&ĐT. SGK điện tử đảm bảo các yêu cầu chuyên môn: Nội dung đúng chuẩn, tính toàn vẹn của SGK, tính đáp ứng của SGK, tính hấp dẫn và tương tác của SGK điện tử, phát triển kho sách giáo dục và ứng dụng học tập trực tuyến, khả năng tích hợp trong môi trường học tập tương tác.

Để có được sản phẩm này, NXB Giáo dục Việt Nam đã liên kết với Tập đoàn Tinh Vân để xuất bản sách điện tử Classbook. Trong giai đoạn thí điểm, sản phẩm Classbook đã được triển khai giới thiệu tại gần 400 trường phổ thông Hà Nội, TPHCM, Hải Phòng và Đà Nẵng và đạt được tính hoàn hảo bền, đa năng. Classbook đã nhận giải thưởng Nhân tài Đất Việt, Sao Khuê.
Sách giáo khoa điện tử Classbook không chỉ dừng lại ở việc chuyển tải nội dung truyền thống mà còn hỗ trợ việc biên tập và gắn kết những nội dung đa phương tiện, cung cấp những chức năng cho phép học sinh có thể tương tác với nội dung bài học.
Học sinh có thể sử dụng các chức năng tương tác "Touch-to-speak" (chạm để nói) một câu, một đoạn văn hoặc cả bài học tiếng Anh. Ở môn Âm nhạc, các em có thể nghe trực tiếp bài hát thông qua chức năng "Touch-to-play", tìm hiểu thông tin về nhạc sĩ thông qua các tư liệu multimedia đính kèm...
Ngoài những nội dung trên máy, người dùng Classbook còn có thể kết nối tới kho sách trực tuyến và ứng dụng Classbook Store (http://classbook.vn/), là địa chỉ cung cấp một thư viện sách giáo dục điện tử gồm sách giáo khoa, sách bổ trợ, sách giáo viên, sách tham khảo, sách dạy kỹ năng mềm... các ứng dụng học tập và nguồn tư liệu mở rộng cho các môn học như các thí nghiệm mô phỏng, tư liệu giảng dạy, thư viện đề thi và lời giải, các tư liệu luyện thi, học liệu… 
Với mô hình mở, nội dung trên Classbook Store sẽ do các nhà xuất bản, các nhà cung cấp nội dung hay dịch vụ trực tuyến cho giáo dục và trên hết chính cộng đồng giáo viên xây dựng và chia sẻ. Với phiên bản dành cho giáo viên, Classbook cho phép người dùng sử dụng thêm các tài liệu tham khảo, sách, bài giảng khác thông qua thẻ nhớ để phục vụ quá trình giảng dạy.

Sách giáo khoa điện tử đầu tiên ở Việt Nam,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên

Sách giáo khoa điện tử đầu tiên ở Việt Nam,Trung tâm học liệu-Đại học Thái hà xuất bản Giáo dục Việt Nam vừa ra mắt sách giáo khoa điện tử Classbook, tích hợp 310 cuốn sách giáo khoa, sách bài tập từ lớp 1 đến lớp 12 cùng hơn 20 ứng dụng bổ trợ cho nhiều môn học. Trong giai đoạn thí điểm, Classbook đã được giới thiệu tại gần 400 trường học tại Hà Nội, TPHCM, Hải Phòng, Đà Nẵng.
Xuất bản sách điện tử là cần thiết
Classbook là máy tính bảng kích thước 8 inch (tương đương cuốn sách) chứa toàn bộ sách giáo khoa và sách bổ trợ của chương trình phổ thông, đúng theo yêu cầu khung chương trình của Bộ GD&ĐT. Thiết bị có thể sử dụng liên tục 8 - 12 giờ. Khác với những cuốn sách in đen trắng thường thấy, sách điện tử này có màu sắc như nguyên bản, có những môn học tương tác bằng bài hát, hội thoại tiếng Anh... giúp học sinh hứng thú hơn.
Ông Ngô Trần Ái - Tổng giám đốc NXB Giáo dục Việt Nam - cho biết: Việc xuất bản sách điện tử là cần thiết của ngành GD&ĐT. SGK điện tử đảm bảo các yêu cầu chuyên môn: Nội dung đúng chuẩn, tính toàn vẹn của SGK, tính đáp ứng của SGK, tính hấp dẫn và tương tác của SGK điện tử, phát triển kho sách giáo dục và ứng dụng học tập trực tuyến, khả năng tích hợp trong môi trường học tập tương tác.

Để có được sản phẩm này, NXB Giáo dục Việt Nam đã liên kết với Tập đoàn Tinh Vân để xuất bản sách điện tử Classbook. Trong giai đoạn thí điểm, sản phẩm Classbook đã được triển khai giới thiệu tại gần 400 trường phổ thông Hà Nội, TPHCM, Hải Phòng và Đà Nẵng và đạt được tính hoàn hảo bền, đa năng. Classbook đã nhận giải thưởng Nhân tài Đất Việt, Sao Khuê.
Sách giáo khoa điện tử Classbook không chỉ dừng lại ở việc chuyển tải nội dung truyền thống mà còn hỗ trợ việc biên tập và gắn kết những nội dung đa phương tiện, cung cấp những chức năng cho phép học sinh có thể tương tác với nội dung bài học.
Học sinh có thể sử dụng các chức năng tương tác "Touch-to-speak" (chạm để nói) một câu, một đoạn văn hoặc cả bài học tiếng Anh. Ở môn Âm nhạc, các em có thể nghe trực tiếp bài hát thông qua chức năng "Touch-to-play", tìm hiểu thông tin về nhạc sĩ thông qua các tư liệu multimedia đính kèm...
Ngoài những nội dung trên máy, người dùng Classbook còn có thể kết nối tới kho sách trực tuyến và ứng dụng Classbook Store (http://classbook.vn/), là địa chỉ cung cấp một thư viện sách giáo dục điện tử gồm sách giáo khoa, sách bổ trợ, sách giáo viên, sách tham khảo, sách dạy kỹ năng mềm... các ứng dụng học tập và nguồn tư liệu mở rộng cho các môn học như các thí nghiệm mô phỏng, tư liệu giảng dạy, thư viện đề thi và lời giải, các tư liệu luyện thi, học liệu… 
Với mô hình mở, nội dung trên Classbook Store sẽ do các nhà xuất bản, các nhà cung cấp nội dung hay dịch vụ trực tuyến cho giáo dục và trên hết chính cộng đồng giáo viên xây dựng và chia sẻ. Với phiên bản dành cho giáo viên, Classbook cho phép người dùng sử dụng thêm các tài liệu tham khảo, sách, bài giảng khác thông qua thẻ nhớ để phục vụ quá trình giảng dạy.
Nguyên

Thứ Tư, 19 tháng 6, 2013

Đọc sách, vốn sống và lòng nhân ái ,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên

Đọc sách, vốn sống và lòng nhân ái ,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên
Khác với nhiều teen hiện nay, cả Thục Nhi và Bích Ly đều không chơi game, facebook, không có trang blog cá nhân, không dùng ngôn ngữ “hot” nhắn tin. Điều đáng quan tâm nhất của hai em đó là đam mê đọc sách, đặc biệt là văn học. Đạt điểm tối đa môn Văn thi tốt nghiệp THPT, niềm vui đong đầy trên hai gương mặt trẻ.
Chủ nhân điểm 10 Văn: Nguyễn Thị Bích Ly
Ngày 16-6, Sở Giáo dục-Đào tạo TP Đà Nẵng công bố điểm thi tốt nghiệp THPT năm học 2012-2013. Hai thí sinh đạt điểm 10 môn Văn là Nguyễn Trần Thục Nhi, học sinh lớp 12/31 Trường THPT Phan Châu Trinh và Nguyễn Thị Bích Ly, học sinh lớp 12/7 Trường THPT Hoàng Hoa Thám. Nhi có tổng số điểm thi 6 môn là 52,5 điểm, Ly là 52 điểm.
Đây là lần đầu tiên Đà Nẵng có học sinh đạt điểm tối đa môn Văn trong kỳ thi tốt nghiệp THPT. Ngoài việc hoàn thành tốt các câu hỏi khác của đề thi, chính câu 2 của đề thi đã mang lại cho các em điểm tối đa 10.
Trải lòng mình với câu hỏi: “Viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ) bày tỏ suy nghĩ của anh/chị về hành động dũng cảm cứu người của học sinh Nguyễn Văn Nam từ thông tin sau: “Chiều ngày 30.4.2013, bên bờ sông Lam, đoạn chảy qua xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, Nguyễn Văn Nam (học sinh lớp 12 T7, Trường THPT Đô Lương 1) nghe tiếng kêu cứu có người đuối nước dưới sông, em liền chạy đến. Thấy một nhóm học sinh đang chới với dưới nước, Nam đã nhảy xuống, lần lượt cứu được ba học sinh lớp 9 và một học sinh lớp 6. Khi đẩy được em thứ 5 vào bờ thì Nam đã kiệt sức và bị dòng nước cuốn trôi” (Theo Khánh Hoan, Thanh Niên Online, ngày 6.5.2013), cả hai em đều đã cháy hết mình trong một khoảng khắc của sự đồng cảm, sự thán phục và niềm tự hào.
“Bạn Nguyễn Văn Nam chính là tấm gương sáng bởi đã hy sinh cả sự sống của mình để cứu các bạn khác. Em phải soi mình vào sự hi sinh đó của Nam để sống tốt hơn và em mong nhiều bạn trẻ khác cùng tuổi với em và Nam cũng nghĩ như thế. Sống đẹp cho ngày mai…”. Đó là lời chia sẻ đầy xúc động của em Nguyễn Trần Thục Nhi khi nói về cảm xúc của mình và những suy nghĩ về giới trẻ hiện nay.
Gặp Thục Nhi khi em đang phụ giúp mẹ chia trứng vịt cho phiên chợ ngày mai, Nhi khá kín đáo khi nói về mình: “Sáng nay khi nghe tin từ cô giáo chủ nhiệm, em đã không thể tin. Điểm 10 môn Văn quả là một điều bất ngờ với em và cả gia đình…”.
Là học sinh lớp 12/31 Trường THPT Phan Châu Trinh, Nhi yêu văn học từ nhỏ và từng giành giải Ba môn Văn trong kỳ thi học sinh giỏi Văn toàn Thành phố Đà Nẵng năm lớp 9. Ham đọc sách, thích tiểu thuyết kinh điểm và những cuốn sách có kiến thức về kỹ năng sống, học trên lớp chưa hiểu trọn nội dung của bài, về nhà bao giờ Nhi tự tìm rồi tự lý giải lấy. Từ thói quen trở thành một kỹ năng sống, em quan niệm rằng, để học tốt môn Văn, ngoài niềm đam mê, phải biết tích lũy vốn sống, và luôn luôn sáng tạo. Học văn là học cách làm người, học cách sống nhân ái và tôn trọng mọi người như tôn trọng chính bản thân mình.
Viết về Nguyễn Văn Nam, Nhi đã dành trọn hai trang giấy thi để nói hết suy nghĩ, sự cảm phục của mình. Không bị giới hạn 400 chữ của đề thi, Nhi còn dùng nhiều thí dụ trong cuộc sống để minh chứng cho những việc làm ý nghĩa, thiết thực, cứu người cũng như trăn trở trước thực trạng nhiều bạn trẻ sống dễ dãi, buông thả, dựa dẫm vào cha mẹ và vô trách nhiệm với bản thân.
“Để có được một quyết định như Nam, quả là khó khăn. Nhưng bạn ấy đã làm được! Chính hành động của bạn ấy đã cho em bài học quý về đức hy sinh và tiếp thêm cho em lòng nhân ái, tình yêu đồng loại”.
Nguyễn Thị Bích Ly cũng là học sinh nhiều năm liền đạt giải học sinh giỏi Văn cấp thành phố. Viết về Nam, Ly chia sẻ, trong cuộc sống, muốn giúp đỡ người khác gặp tình huống khó khăn có thể bằng nhiều cách. Vấn nạn học đường hiện nay rất phức tạp và rắc rối. Trước xung đột, em sẽ không can dự trực tiếp vì như thế có thể đẩy sự căng thẳng lên cao hơn. Thay vì can ngăn, em sẽ tìm cách báo với người lớn tuổi xung quanh, Ban giám hiệu nhà trường hoặc cơ quan chức năng, để có thể giải sự việc một cách tốt nhất.
Bí quyết học tốt môn Văn của Ly, ngoài năng khiếu còn cần kỹ năng tư duy, cảm nhận cuộc sống, tự học, tự luận và phải có đam mê. Ly đã chọn những cuốn sách hay, phù hợp với lứa tuổi để đọc, rồi tìm ra những câu văn, ý văn hay và ghi vào một cuốn sổ nhỏ để làm “từ điển sống”cho bản thân.
Cuốn sách văn học Ly yêu thích nhất là tác phẩm “Bước đường cùng” của nhà văn Nguyễn Công Hoan. Điểm 10 môn Văn là một động lực để em tiếp tục thi tốt trong kỳ thi đại học tới. Ly đã đăng ký thi vào Khoa Luật, Đại học Khoa học Huế và Trường Kinh tế Đà Nẵng. Với ước mơ sẽ trở thành một cảnh sát giao thông.
Trước kỳ thi đại học sắp tới, cả hai em đều cho rằng, với môn Văn, những đề thi mở, tự luận sẽ là một thách thức. Nhưng chính những đề “phá rào” như vậy sẽ dẫn tới những bài văn thực sự, trả lại vị trí vốn có cho môn Văn trong nhà trường.

Cảm nhận sau chuyến tham quan và học tập tại MDIS - Singapore,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên

Cảm nhận sau chuyến tham quan và học tập tại MDIS - Singapore,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên

Trải qua hai vòng thi viết luận và phỏng vấn, tớ vô cùng hãnh diện khi trở thành một trong năm thí sinh xuất sắc nhất dành được chuyến thăm quan và học tập tại Singapore do Học viện Phát triển Quản lý Singapore - MDIS tổ chức. Phải nói rằng, chuyến đi tới Đảo quốc sư tử lần này đã đem lại cho tớ vô số những trải nghiệm quý giá và những kỉ niệm khó quên.
“WC thân thiện ở MDIS”

Đúng như người ta thường nói: Singapore là một đất nước sạch và văn minh nhất thế giới. Khắp mọi con đường, ngõ ngách…đều được phủ một màu xanh của cây cối và màu sắc rực rỡ của các loại hoa. Tới khu học xá của MDIS, tấm biển “Green MDIS” được treo ở hầu hết khắp nơi trong khuôn viên trường. Ngay cả khu vệ sinh của trường cũng không hề nhàm chán và đơn điệu, WC được tô điểm bởi những hình vẽ và màu sắc rất đặc trưng dành cho hai giới: màu xanh nước biển cá tính cho nam và màu hồng nữ tính cho phái nữ.

Trong suốt sáu ngày tại đây, nhóm chúng tớ được trường bố trí sinh hoạt tại khu kí túc xá mới nằm ngay trong khuôn viên trường. Đây là kí túc xá đẹp và hiện đại nhất mà tớ từng thấy. Các phòng ở đều được trang bị đầy đủ tiện nghi như TV, điều hòa, bình nước nóng, quạt, giường, tủ áo, giá sách, wifi…Đối diện với phòng tớ còn có phòng Gym để sinh viên có thể rèn luyện thể chất. Khu canteen của trường ở dưới sảnh tầng 1, vô cùng rộng rãi và thoáng mát. Món ăn hết sức phong phú có thể chiều lòng được những sinh viên - thực khách đến từ các quốc gia khác nhau như:thức ăn Địa trung hải, Ấn Độ, Đài loan, đồ ăn nhanh của phương Tây và Trung Quốc. Tất cả đều rất hấp dẫn và không quá đắt với túi tiền của sinh viên.

“Ekip thực hiện chương trình” tại trường quay của MDIS

Chuyện học tập của “5 du học sinh ngắn ngày” cũng có rất nhiều điều để kể. Có tham gia rồi mới thấy nếu bỏ lỡ những tiết học quí báu ấy thì đúng là…phí nửa cuộc đời! Đầu tiên chúng tớ được tham dự lớp của thầy Rezaz Sumali, chủ nhiệm khoa Tourism & Hospitality. Chỉ trong vòng 3 giờ ngắn ngủi, chúng tớ có thể sắp đặt bàn ăn theo phong cách phương Tây, check in cho khách như một lễ tân khách sạn thực thụ, pha các loại cà phê như Moka, Expresso, Capucino… “Muốn đào tạo được những người quản lí, trước hết phải đào tạo họ thành những người thợ chuyên nghiệp”, câu nói của thầy Sumali mà tớ thấy tâm đắc nhất. Buổi workshop này hay đến mức khi tạm biệt thầy rồi, chúng tớ đã quyết tâm sẽ quay lại để học tiếp về du lịch và khách sạn ở MDIS.

Ngoài ra, chúng tớ còn được tham gia tiết học của khoa Media & Communication do thầy Fuadi và Venol giảng dạy. Trước khi vào học, chúng tớ đã được bật mí rằng hai thầy đều là những “big shot” của đài truyền hình Singapore và MediaCorp. Nhưng thật ngạc nhiên, hai thầy rất cởi mở, vui tính và vô cùng thân thiện với sinh viên. Chúng tớ đã được các thầy hướng dẫn cách tổ chức một show chương trình truyền hình, thu một chương trình phát thanh và thậm chí là “vào vai” những MC, đạo diễn hình, quay phim…trong chính trường quay hiện đại của MDIS.

“Vui choi tai Univeral, Sentosa”.

Một phần không thể thiếu được của chuyến đi lần này là những tour thăm quan đến các địa điểm nổi tiếng của Singapore. Ngày đầu tiên, chúng tớ được ghé thăm thiên đường mua sắm Orchard Road và thưởng thức món kem bọc bánh mỳ là lạ tại Đảo quốc sư tử. Sau đó, chúng tớ đã có dịp đặt chân tới đảo Sentosa, nhà hát Esplanade, vườn thú Quốc gia Singapore, đu quay khổng lồ Flyer và tất nhiên cả bức tượng Sư tử biển nổi tiếng.

Thấm thoắt 6 ngày học tập và khám phá Singapore đã trôi qua. Chỉ ước gì chuyến đi kéo dài thêm... Về Việt Nam, tớ sẽ rất nhớ những cô chú làm việc trong Ban quản lí kí túc xá MDIS, những con người thân thiện đã giúp đỡ chúng tớ trong suốt thời gian qua; nhớ cả cậu bạn Joshua hài hước mà tớ vừa làm quen ở lớp Du lịch Khách sạn…Họ đã và đang tạo nên bản sắc văn hóa cho Học viện Phát triển Quản lý Singapore - MDIS.

Tạm biệt Singapore, chắc chắn sẽ trở lại!

Thứ Hai, 10 tháng 6, 2013

Chuyên gia thông tin – thư viện sẽ làm gì trong kỷ nguyên số? ,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên

Chuyên gia thông tin – thư viện sẽ làm gì trong kỷ nguyên số? ,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên
Có thể khẳng định rằng, nghề TTTV đang ở tâm điểm của cuộc cách mạng đòi hỏi sự giao thoa của 3 ngành khoa học: Khoa học thư viện, Khoa học thông tin và Khoa học máy tính.
1. Sự mở rộng của nghề thông tin – thư viện:
CNTT đang làm thay đổi nhanh chóng toàn bộ thế giới đồng thời tạo ra nhiều thách thức và cơ hội. Nghề thông tin – thư viện (TTTV) là một trong những nghề gặp nhiều thách thức nhất trong xã hội tri thức. Nó kết hợp lĩnh vực quản trị tri thức với những ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông. Các công nghệ này ngày càng ảnh hưởng mạnh tới hoạt động của thư viện, các tài nguyên thông tin, các dịch vụ thông tin, nhân viên thư viện và người dùng tin.
Nghề TTTV đang phải đương đầu với các thách thức do cuộc cách mạng công nghệ này đem lại để tồn tại và đáp ứng được những nhu cầu tin đa dạng, phức tạp của cộng đồng người dùng tin. Sự thay đổi này là quy luật của tự nhiên. Các trung tâm TTTV phải thay đổi để phát triển và chính đội ngũ nhân viên TTTV càng phải thay đổi để giúp các trung tâm TTTV thực hiện được sứ mệnh đó.
Ở Mỹ một người tốt nghiệp cử nhân hoặc thạc sỹ ngành TTTV không những làm được những công việc trong các trung tâm TTTV mà còn có thể làm được những công việc sau [7]:
- Xuất bản sách: họ sử dụng kiến thức về sách để lựa chọn và hiệu đính những xuất bản phẩm.
- Lãnh đạo công nghệ thông tin – CIO : là người quyết định lựa chọn những công nghệ tin học ứng dụng cho một doanh nghiệp và quản lý cách thức chia sẻ thông tin giữa các thành viên trong doanh nghiệp đó.
- Quản lý nội dung thông tin: tìm kiếm và tổ chức thông tin cho cộng đồng mạng online.
- Quản trị cơ sở dữ liệu: tổ chức, cập nhật và lưu trữ dữ liệu trên cơ sở kỹ năng lập trình.
- Môi giới thông tin: tiến hành công việc nghiên cứu và cung cấp thông tin cho đối tác.
- Mua bán các phần mềm TTTV.
- Phụ trách công việc phân loại: phân loại dữ liệu và sắp xếp thông tin vào các mục phù hợp cho các công ty thương mại điện tử.
- Quản trị Web: thiết kế, bảo trì và lập trình Web…
Điều này cho thấy, kiến thức và kỹ năng chuyên ngành TTTV không chỉ được áp dụng cho duy nhất công việc tại các trung tâm TTTV mà còn mở rộng và rất có ích cho các công việc mà kỷ nguyên số đang đòi hỏi.
2. Những yếu tố tác động đến nghề thông tin – thư viện: Các thư viện ngày nay đang phải đối mặt với hàng loạt với những thách thức phức tạp xuất phát từ nhiều lĩnh vực khác nhau của xã hội tri thức trong thế kỷ 21. Chúng bao gồm những thách thức chính sau [7]:
- Sự bùng nổ thông tin.
- Cách mạng CNTT và truyền thông.
- Sự bùng nổ các tài nguyên thông tin trên web.
- Ngân sách của thư viện ngày càng eo hẹp.
- Giá của tài liệu in ấn ngày càng cao.
- Nguồn thông tin số được sử dụng mức độ cao.
- Nhu cầu người dùng tin ngày càng cao.
- Cuộc cách mạng của các trường học ảo.
- Sự thay đổi chất lượng và số lượng của các tài nguyên thông tin.
- Xuất bản và truyền thông học thuật theo phương thức mới.
- Sự phát triển của các thư viện số, thư viện ảo, thư viện lai.
- Nhà sách trực tuyến và dịch vụ thông tin trực tuyến.
Những thách thức này còn được gọi là sự thay đổi quan điểm, tái thiết kế, chuyển đổi dạng thức của môi trường thông tin, của chức năng thư viện và của nghề thư viện. Thư viện ngày nay không chỉ là nơi lưu trữ thông tin mà còn là cổng thông tin, tăng cường tới việc truy cập thông tin của người dùng. Do vậy, thư viện sẽ phải đảm nhiệm các chức năng sau:
- Ứng dụng các hàng loạt các công nghệ mới phù hợp.
- Vi tính hoá và mạng hoá mọi hoạt động thư viện, các tài nguyên và dịch vụ thông tin.
- Xây dựng bộ sưu tập vừa ở dạng in ấn vừa ở dạng điện tử.
- Cung cấp cho người dùng tin ở công sở hay tại nhà cổng kết nối tới nội dung thông tin ở trong nước và toàn cầu.
- Chỉ dẫn và đào tạo việc sử dụng nguồn tin số.
- Cung cấp sản phẩm và dịch vụ thông tin phù hợp với yêu cầu tin.
3. Sự biến đổi vai trò của nghề thông tin – thư viện:
Trong thế kỷ 21, vai trò của nghề TTTV là phải biến đổi cho phù hợp với sự thay đổi của công nghệ, của môi trường thông tin và nhu cầu tin của cộng đồng người dùng tin. Chuyên gia TTTV không chỉ cung cấp dịch vụ thông tin truyền thống mà còn phải cả dịch vụ thông tin số trực tuyến cho người dùng tin. Họ phải bắt kịp những kỳ vọng của người dùng tin để có thể tồn tại và phục vụ họ. Chuyên gia TTTV phải trở thành người hoa tiêu tri thức để chiết xuất dữ liệu trở thành thông tin hữu ích. Một nhân viên TTTV phải là một chuyên gia thông tin, am hiểu CNTT, chuyên gia web, chuyên gia quản trị tri thức, người hoa tiêu tri thức, chuyên gia giáo dục đào tạo, nhà tiếp thị thông tin, nhà cung cấp dịch vụ thông tin…
Dưới đây là những kỹ năng và kiến thức đòi hỏi chuyên gia TTTV phải có[7]:
Kỹ năng quản lý
- Có tầm nhìn và khả năng lãnh đạo
- Thúc đẩy làm việc nhóm và phát huy khả năng của mọi thành viên trong nhóm
- Phát huy sử dụng mọi nguồn lực trong thư viện
- Thuyết phục được giá trị của dịch vụ thông tin thư viện với người ra quyết định
- Đảm nhận vai trò thành viên ban quản lý một cách tích cực và hiệu quả
- Hiểu và sử dụng hiệu quả kỹ năng hoạt động nhóm như: nhận biết được mục tiêu, sứ mệnh và hướng phát triển của thư viện
- Phát triển và thực hiện các chính sách và thủ tục để vận hành hiệu quả các chức năng thư viện
- Liên tục điều chỉnh các chương trình và dịch vụ để phù hợp với sự thay đổi của xã hội
Kiến thức về chính sách, quy tắc, tiêu chuẩn
- Luôn nắm được các vấn đề nảy sinh có ảnh hưởng tới thư viện
- Hiểu được chính sách, quy tắc và tiêu chuẩn thư viện
Kiến thức về tài nguyên và dịch vụ thông tin
- Có hiểu biết chuyên sâu về mục đích của thư viện
- Xác định được các tài liệu phù hợp với yêu cầu của người dùng
- Hiểu được nội dung thông tin và lọc được thông tin
- Tạo cho người dùng tin sử dụng dễ dàng dịch vụ của thư viện
Kỹ năng về công nghệ
- Nắm bắt được những công nghệ tương lai có tác động tới thư viện
- Sử dụng được những công nghệ mới nhất để quản lý và chuyển giao dịch vụ thông tin
- Sử dụng công nghệ để tạo ra giá trị gia tăng như: thư mục, cơ sở dữ liệu…
- Vận hành sáng tạo và cải tiến môi trường thông tin dựa trên nền tảng web
Kỹ năng tìm kiếm chuyên gia
- Tinh thông quá trình tìm tin, chiến lược tìm, kỹ thuật tìm, máy tìm và công nghệ tìm tin
- Có khả năng tìm và đánh giá được những thông tin phù hợp với người dùng
- Có kiến thức chuyên sâu về tìm kiếm thư mục, cơ sở dữ liệu và tài nguyên web
Kỹ năng giao tiếp
- Trình bày được giá trị dịch vụ của thư viện với người ra quyết định, nhân viên và người dùng tin
- Giao tiếp rõ ràng và trân trọng khách hàng cũng như đồng nghiệp
- Lắng nghe khách hàng và đồng nghiệp một cách tích cực
- Thương thảo với nhà xuất bản, khách hàng và người cung cấp hàng một cách hiệu quả
Kỹ năng trình bày
- Phát triển kỹ năng tư vấn độc giả để thúc đẩy thói quen đọc sách ở mọi trình độ
- Tăng cường nhận thức vai trò của thư viện và nhân viên thư viện trong phát triển kiến thức thông tin
- Trình bày thông tin một cách dễ tiếp nhận đối với người dùng tin
- Sử dụng các kỹ thuật khác nhau để truyền tải thông tin tới người dùng bằng nhiều hình thức học khác nhau
Dịch vụ khách hàng
- Trân trọng khách hàng
- Hiểu được nhu cầu thông tin và sở thich khách hàng
- Hướng dẫn khách hàng thu thập thông tin, cách đọc, kỹ năng nghiên cứu
- Liên tục thiết kế và tăng cường dịch vụ và sản phẩm thông tin hướng đối tượng
- Cung cấp dịch vụ cho khách hàng một cách tin cậy và cạnh tranh
Cam kết học tập suốt đời
- Có trách nhiệm phát triển sự nghiệp của bản thân
- Luôn cập nhật kiến thức và kỹ năng công nghệ mới
- Luôn tìm kiếm cơ hội học tập
- Linh hoạt thích nghi với tình hình mới, các hệ thống mới, công cụ và môi trường mới
- Chấp nhận tích cực, thích nghi và quản lý những thay đổi hiệu quả
Kỹ năng đánh giá
- Luôn phân tích, tìm hiểu và đánh giá nhu cầu dịch vụ thông tin của người dùng
- Không ngừng thiết kế và cung cấp các dịch vụ và sản phẩm thông tin giá trị gia tăng
- Đánh giá kết quả sử dụng các dịch vụ và tài nguyên thông tin
- Tiến hành nghiên cứu để tìm ra các giải pháp cho các vấn đề quản lý thông tin nảy sinh
Các kỹ năng khác
- Tiếp thị và thúc đẩy dịch vụ
- Kỹ năng quản lý dự án
- Kỹ năng quản lý thời gian
- Quản trị bản quyền số
- Kỹ năng quản trị tri thức
Đúc kết lại, chúng ta thấy một chuyên gia TTTV của thế kỷ 21 phải được trang bị đầy đủ khối kiến thức và kỹ năng thuộc các lĩnh vực khoa học sau ( xem hình dưới )[6]
Có thể khẳng định rằng, nghề TTTV đang ở tâm điểm của cuộc cách mạng đòi hỏi sự giao thoa của 3 ngành khoa học: Khoa học thư viện, Khoa học thông tin và Khoa học máy tính. Chính cuộc cách mạng này tạo nên một diện mạo mới cho nghề TTTV. Nó đóng một vai trò quan trọng trong công nghiệp nội dung số, một nền công nghiệp phát triển dựa trên nền tảng hạ tầng công nghệ thông tin vốn là thành quả của cuộc cách mạng CNTT phát triển như vũ bão đặc biệt trong hai thập niên vừa qua.
4. Áp lực thay đổi chương trình đào tạo thông tin – thư viện đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho công nghiệp nội dung số
Công nghiệp nội dung số là một khái niệm rất mới và trên thế giới, người ta cũng chưa tìm ra được một định nghĩa thống nhất. Mỗi quốc gia có cách hiểu về lĩnh vực này khác nhau. Tại hội thảo do Bộ Bưu chính Viễn thông tổ chức tại Hà Nội năm 2005 về lĩnh vực này, chuyên gia Hàn Quốc Leo Hwa Chiang đưa ra một khái niệm đơn giản là nội dung cộng với công nghệ số[6].
Phần lớn các quốc gia đều giới hạn khái niệm trong những lĩnh vực mà họ có thế mạnh hoặc có tiềm năng lớn để phát triển. Tuy nhiên, hiểu một cách nôm na, công nghiệp nội dung số là ngành công nghiệp thiết kế, sản xuất, xuất bản, lưu trữ, phân phối, phát hành các sản phẩm nội dung số và các dịch vụ liên quan, bao gồm nhiều lĩnh vực như: tra cứu thông tin, giải trí số, chăm sóc sức khoẻ qua mạng, học qua mạng…
Các sản phẩm của Công nghiệp nội dung số rất đa dạng, bao gồm văn bản, dữ liệu, hình ảnh, âm thanh…và được thể hiện dưới dạng số (byte, bit…) được lưu giữ, truyền trong môi trường điện tử như mạng máy tính, mạng viễn thông, truyền thanh, truyền hình… Nói cách khác, sản phẩm Công nghiệp nội dung số là sự tích hợp các dạng khác nhau, trộn nhiều dạng văn bản, hình ảnh và âm thanh lại với nhau, đồng thời có thể dễ dàng lưu giữ và truy xuất, tái sản xuất, nâng cấp và chỉnh sửa. Như vậy, phát triển thư viện số (TVS), số hóa tài liệu, phát triển nguồn tài liệu số, xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) toàn văn– thư mục…chính là những thành tố quan trọng đóng góp cho sự phát triển của công nghiệp này.
Để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho các dự án TVS, nhiều cơ sở đào tạo TTTV trên thế giới đã nhanh chóng phối hợp với các chuyên gia máy tính và mạng để tích hợp khối kiến thức về máy tính – thông tin học – thư viện học tạo nên chương trình đào tạo TVS. Theo Jeffrey Pomerantz (2006 )[3], trong 56 chương trình đào tạo thạc sỹ ngành TTTV tại Mỹ thì có 29 chương trình có các môn học liên quan đến TVS. Trong 29 chương trình này, có 40 môn học về TVS được xây dựng và phát triển trong khoảng 2003 – 2006. Có một số chương trình còn có thậm chí từ 2 đến 3 môn học có liên quan đến TVS. Trong các chương trình có nhiều môn học có liên quan đến TVS thì đều có một môn có nội dung Tổng quan về TVS và các môn còn lại thì có nội dung về các chủ đề đặc biệt chuyên sâu về TVS ( như: công nghệ TVS, dịch vụ TVS đặc thù…). Điển hình trong đào tạo TVS tại Mỹ là Khoa TTTV – Đại học Tổng Hợp Bắc Carolina và Khoa Khoa Học Máy Tính – Đại học Virginia Tech ở Mỹ đã kết hợp xây dựng một dự án Phát Triển Chương Trình Đào Tạo Thư Viện Số nhằm khắc phục những bất cập về đào tạo TVS ở Mỹ. Tài liệu giảng dạy được biên soạn nhằm phục vụ đào tạo cho cả hai loại đối tượng sinh viên thuộc Khoa Khoa Học Máy Tính – Đại học Virginia Tech và Khoa TTTV – Đại học Tổng Hợp Bắc Carolina. Vì vậy, việc biên soạn giáo trình do giảng viên của cả hai bên đảm nhiệm. Ngoài ra, ở châu Âu, chương trình thạc sỹ về TVS quốc tế DILL cũng được phát triển dành cho những chuyên gia thông tin làm việc trong môi trường TVS. Chương trình dựa trên sự hợp tác của 3 trường đại học châu ÂU đào tạo TTTV, bao gồm Oslo University College (Norway), Tallinn University (Estonia), and Parma University (Italy)[2]. Ở Úc, có 2 khoa Quản Trị Thông Tin thuộc 2 trường Queensland University of Technology – QUT và University of Technology, Sydney – UTS cũng phát triển môn học về TVS[8]. Nói chung, các chủ đề về TVS trong các chương trình này bao gồm: Tổng Quan TVS, Phát Triển Sưu Tập Số, Đối Tượng Số, Tổ Chức Tri Thức, Kiến Trúc Thông Tin, Không Gian Số, Các Dịch Vụ TVS, Bảo Đảm Lưu Trữ Số, Quản Lý Dự Án TVS, Nghiên Cứu – Đào Tạo TVS…[4],[5].
5. Kết luận:
Tóm lại, để sẵn sàng hội nhập vào môi trường làm việc sử dụng công nghệ số để tạo lập, xử lý, tổ chức, lưu trữ, phục vụ, quản trị thông tin số, các chuyên gia TTTV phải được trang bị đầy đủ các kiến thức và kỹ năng thuộc 3 lĩnh vực khoa học Khoa học thư viện, Khoa học thông tin và Khoa học máy tính. Nhưng để có được trình độ như vậy, đòi hỏi các cơ sở đào tạo TTTV phải thay đổi lại chính mình, xây dựng mục tiêu, phương thức và nội dung chương trình đào tạo, tìm kiếm cơ hội hợp tác – đầu tư để phát triển đội ngũ giảng viên TTTV trình độ cao, làm đội ngũ tiên phong trong cuộc .
ThS. Nguyễn Hoàng Sơn
Khoa Thông Tin – Thư Viện, ĐHKHXH&NV

Công đoàn Đại học Thái Nguyên tham dự Hội nghị Công đoàn Đại học Quốc gia, Đại học Vùng và Công đoàn Cơ quan Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2013 ,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên

Công đoàn Đại học Thái Nguyên tham dự Hội nghị Công đoàn Đại học Quốc gia, Đại học Vùng và Công đoàn Cơ quan Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2013 ,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên
Ngày 15/5/2013, tại Đại học Huế đã diễn ra Hội nghị thường niên cán bộ công đoàn các Đại học Quốc gia,  Đại học vùng và Công đoàn Cơ quan Bộ Giáo dục & Đào tạo năm 2013 với chủ đề “Vai trò công đoàn trong việc tham gia thực hiện quy chế Đại học Quốc gia, Đại học vùng; hoạt động của Hội đồng trường; xây dựng và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ công đoàn”.
Đến và chỉ đạo Hội nghị có PGS.TS Trần Công Phong, UV Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam, UV Ban cán sự Đảng Bộ GD&ĐT, Chủ tịch Công đoàn Giáo dục Việt Nam và các đồng chí đại diện lãnh đạo UBKT, Văn phòng thuộc CĐ Giáo dục Việt Nam; PGS.TS Lê Văn Anh, Phó bí thư Đảng ủy, Phó Giám đốc Đại học Huế và hơn 100 đại biểu cán bộ công đoàn đến từ Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Đại học Thái Nguyên, Đại học Đà Nẵng, Đại học Huế và Công đoàn Cơ quan Bộ Giáo dục & Đào tạo.
  
Đoàn Đại học Thái Nguyên tham gia hội nghị gồm 16 thành viên do PGS.TS Trần Viết Khanh, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Giám đốc, Chủ tịch Công đoàn Đại học Thái Nguyên làm trưởng đoàn cùng các đồng chí trong Ban Thường vụ Công đoàn Đại học Thái Nguyên và đại diện lãnh đạo các Công đoàn cơ sở. 
Trong bài phát biểu khai mạc hội nghị,  PGS.TS Trần Công Phong, Chủ tịch CĐGD Việt Nam đã đánh giá cao những thành tựu mà các công đoàn Đại học Quốc gia, Đại học vùng và Công đoàn cơ quan Bộ Giáo dục & Đào tạo đã đạt được trong thời gian qua, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm của CĐGD Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt là vai trò công đoàn trong việc tham gia thực hiện quy chế Đại học Quốc gia, Đại học vùng; tập trung xây dựng cơ sở, nâng cao năng lực của cán bộ Công đoàn; đổi mới hoạt động Công đoàn cơ sở, ...
Đã có 10 tham luận đến từ các đơn vị được trình bày tại Hội nghị. Nội dung chính của các tham luận này đều tập trung khẳng định vai trò, trách nhiệm của tổ chức công đoàn trong sự nghiệp Giáo dục – Đào tạo đại học hiện nay. PGS.TS Trần Thanh Vân, UVBTV Công đoàn GD Việt Nam, phó Chủ tịch Công đoàn ĐHTN thay mặt  Công đoàn Đại học Thái Nguyên trình bày tham luận “Công đoàn tham gia xây dựng đội ngũ giảng viên có trình độ cao và nâng cao năng lực tiếng Anh cho cán bộ, giảng viên ĐHTN giai đoạn 2008 – 2012” tại Hội nghị.
Cũng trong chương trình Hội nghị, Công đoàn giáo dục Việt Nam và Ban tổ chức Hội nghị đã tổ chức chia tay và tặng quà cho PGS. TS. Lương Văn Hinh - Nguyên Chủ tịch Công đoàn Đại học Thái Nguyên, PGS.TS. Trần Kim Đỉnh - Nguyên Chủ tịch Công đoàn ĐHQG Hà Nội; TS. Huỳnh Văn Sáu - Nguyên Chủ tịch Công đoàn Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.

Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2013

TTHL vinh dự được Giám đốc ĐHTN tặng Giấy khen trong công tác thi đua yêu nước.,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên

TTHL vinh dự được Giám đốc ĐHTN tặng Giấy khen trong công tác thi đua yêu nước.,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên
Nhận thức rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác thi đua trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, ngày 04/3/2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 258 lấy ngày 11/6 hàng năm là ngày Truyền thống thi đua yêu nước.
Từ đó đến nay, ngày 11/6 hàng năm đã thực sự trở thành ngày hội của những người làm công tác thi đua, khen thưởng, là dịp tôn vinh những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, những gương người tốt, việc tốt trong các phong trào thi đua yêu nước. Với ý nghĩa ấy, sáng nay ngày 07/6/2013, tại hội trường Trung tâm Học liệu,  Đại học Thái Nguyên (ĐHTN) long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 65 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc – Ngày truyền thống thi đua yêu nước.
Toàn cảnh lễ kỷ niệm
Tới dự buổi lễ kỷ niệm có đồng chí Chu Thị Hồng Yến, Ủy viên Hội đồng thi đua khen thưởng, Phó trưởng Ban Thi đua khen thưởng tỉnh Thái Nguyên, về phía ĐHTN có PGS.TS Đặng Kim Vui, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc ĐHTN.Tới dự buổi lễ còn có các đồng chí trong BCH Đảng ủy, Bí thư Đoàn TNCSHCM, Chủ tịch Hội cựu chiến binh, các đồng chí lãnh đạo đơn vị, chủ tịch Công đoàn, các đồng chí nguyên là lãnh đạo ĐHTN qua các thời kỳ cùng các tập thể và cá nhân điển hình tiên tiến trong đợt thi đua đặc biệt chào mừng kỷ niệm 65 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc và các cán bộ chuyên viên làm công tác thi đua, khen thưởng trong toàn Đại học.
Mở đầu lễ kỷ niệm, các đại biểu đã được lắng nghe bài diễn văn kỷ niệm 65 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc – Ngày truyền thống thi đua yêu nước do PGS. TS Đặng Kim Vui, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc ĐHTN trình bày.
PGS. TS Đặng Kim Vui, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc ĐHTN trình bày diễn văn tại lễ kỷ niệm
Trong những năm qua, thực hiện lời dạy và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc Đảng ủy, Ban Giám đốc ĐHTN đã nhận thức rõ sâu sắc vai trò vị trí của thi đua trong hoạt động của Đại học đã không ngừng quan tâm phát triển công tác thi đua để thi đua trở thành phong trào rộng lớn trong cán bộ viên chức và học sinh sinh viên, coi thi đua là công cụ hữu hiệu trong quản lý, là động lực to lớn thúc đẩy nhiệm vụ chính trị trong toàn ĐH. Nhiều phong trào thi đua đã được phát động với nội dung và hình thức phong phú nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách trong từng thời kỳ, đó là phong trào thi đua thực hiện tốt cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo”, các phong trào thi đua “Dạy tốt học tốt”, “ Gắn nghiên cứu khoa học với đào tạo, sản xuất và đời sống”, “Nâng cao chất lượng đào tạo, hiệu quả nghiên cứu khoa học, đáp ứng nhu cầu xã hội” thực hiện “Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm” trong trường học…
Các phong trào thi đua đã tạo ra một không khí sôi nổi, hăng say trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học và nâng cao hiệu quả hoạt động của Đại học trên tất cả các lĩnh vực, góp phần to lớn vào thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đại học. Thông qua các phong trào thi đua đã xuất hiện nhiều cách làm hay, nhiều gương người tốt việc tốt, nhiều điển hình tiên tiến, xuất sắc được phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thi đua. Tính từ ngày thành lập Đại học (năm 1994) đến nay Đại học đã có 2 đơn vị và 1 cá nhân được tặng danh hiệu “Anh hùng lao động”; 4 Nhà giáo nhân dân; 62 Nhà giáo và thầy thuốc ưu tú; 9 Chiến sĩ thi đua toàn quốc; 194 Chiến sĩ thi đua cấp Bộ, 4 đơn vị được tặng cờ thi đua của Chính phủ; 16 đơn vị được tặng cờ thi đua của Bộ GD& ĐT, tỉnh Thái Nguyên; hành trăm cá nhân và tập thể được tặng bằng khen của Bộ, Tỉnh, hàng chục tập thể, cá nhân được tặng bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và huân chương các loại…
Tại lễ kỷ niệm, các đại biểu còn được lắng nghe 4 tham luận của trường Đại học Sư phạm, Đại học Nông lâm, Đại học Y dược và Đại học Khoa học, mỗi báo cáo tham luận đều là những phong trào thi đua thiết thực và những kết quả đạt được tại các đơn vị.
Hưởng ứng đợt phát động thi đua kỷ niệm 65 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc của ĐHTN đã xuất hiện nhiều tập thể và cá nhân điển hình tiên tiến được đơn vị và ĐHTN khen thưởng, đó là: 11 cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tặng giấy khen cho 13 tập thể, 22 cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua Kỷ niệm 65 ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Thi đua ái quốc.
11 cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
Trong Phong trào thi đua chung của toàn Đại học, Trung tâm Học liệu cũng đã vinh dự được Giám đốc ĐHTN tặng Giấy khen, như sau:
  • Trung tâm Học liệu là 1 trong 13 đơn vị có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua Kỷ niệm 65 ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Thi đua ái quốc 
  • Ông Nguyễn Duy Hoan - Giám đốc Trung tâm Học liệu đã có thành tích xuất sắc trong cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
  • Ông Lê Văn Nam - Phó trưởng Phòng Công nghệ Thông tin đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua Kỷ niệm 65 ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Thi đua ái quốc
13 tập thể đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua Kỷ niệm 65 ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Thi đua ái quốc
22 cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua Kỷ niệm 65 ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Thi đua ái quốc
Lễ kỷ niệm là dịp cán bộ viên chức ĐHTN cùng nhau ôn lại truyền thống vẻ vang của ngành thi đua yêu nước, học tập và quán triệt sâu sắc tư tưởng thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước trong giai đoạn hiện nay, để công tác thi đua và phong trào thi đua không ngừng phát triển mạnh mẽ, tạo ra sức mạnh to lớn, đưa sự nghiệp cách mạng của đất nước giành được những thắng lợi to lớn và vẻ vang hơn.

Thứ Năm, 30 tháng 5, 2013

Tuyên dương sinh viên có thành tích cao trong hoạt động nghiên cứu sáng tạo ,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên

Tuyên dương sinh viên có thành tích cao trong hoạt động nghiên cứu sáng tạo ,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên

Tuyên dương sinh viên có thành tích cao trong hoạt động nghiên cứu sáng tạo
Thứ năm, 5/30/2013, 2:55:45 PM
Năm học 2012-2013, nhiều sinh viên Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã đạt thành tích xuất sắc trong hoạt động nghiên cứu sáng tạo, chiều 29/5, Nhà trường đã tổ chức lễ tuyên dương và khen thưởng cho các sinh viên (SV) tiêu biểu giành giải cao trong các kỳ thi cấp quốc gia, quốc tế.

PGS-TS Phạm Việt Đức, Phó Hiệu trưởng Nhà trường tặng Giấy khen cho các sinh viên đạt thành tích cao trong cuộc thi Tài năng khoa học trẻ Việt Nam năm 2012.
PGS-TS Phạm Việt Đức, Phó Hiệu trưởng Nhà trường tặng Giấy khen cho các sinh viên đạt thành tích cao trong cuộc thi
 
Theo đánh giá của Nhà trường, có 3 hoạt động nổi bật mà SV đạt thành tích cao trong các kỳ thi đó là: Kỳ thi Ôlympic Toán học SV toàn quốc lần thứ 21 tổ chức trung tuần tháng 4 vừa qua, trong số 10 SV dự thi có 6 SV đoạt giải gồm 1 giải Nhì, 3 giải Ba và 2 giải Khuyến khích. Tiếp theo là Đại hội Thể thao SV Đông Nam Á lần thứ 16 tổ chức tại Lào, SV Nguyễn Thanh Thảo, lớp TDTT A K47 của Trường đã giành Huy chương Vàng ở nội dung Taekwondo hạng 65 kg. Và, Cuộc thi “Tài năng khoa học trẻ Việt Nam” năm 2012 dành cho SV do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Trung ương Đoàn, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức, Trường chọn cử 6 công trình do SV nghiên cứu tham gia, có 4 công trình đoạt giải: 1 giải Nhì, 1 giải Ba và 2 giải Khuyến khích. Tại buổi lễ, Nhà trường cũng đã khen thưởng cho 20 đề tài nghiên cứu khoa học của SV tham gia giải thưởng “Tài năng khoa học trẻ” cấp trường. Đồng thời, chọn gửi 7 đề tài đi thi Giải thưởng “Tài năng khoa học trẻ Việt Nam” năm 2013.

Chuyên gia thông tin – thư viện sẽ làm gì trong kỷ nguyên số? ,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên

Chuyên gia thông tin – thư viện sẽ làm gì trong kỷ nguyên số? ,Trung tâm học liệu-Đại học Thái Nguyên

Có thể khẳng định rằng, nghề TTTV đang ở tâm điểm của cuộc cách mạng đòi hỏi sự giao thoa của 3 ngành khoa học: Khoa học thư viện, Khoa học thông tin và Khoa học máy tính.
1. Sự mở rộng của nghề thông tin – thư viện:
CNTT đang làm thay đổi nhanh chóng toàn bộ thế giới đồng thời tạo ra nhiều thách thức và cơ hội. Nghề thông tin – thư viện (TTTV) là một trong những nghề gặp nhiều thách thức nhất trong xã hội tri thức. Nó kết hợp lĩnh vực quản trị tri thức với những ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông. Các công nghệ này ngày càng ảnh hưởng mạnh tới hoạt động của thư viện, các tài nguyên thông tin, các dịch vụ thông tin, nhân viên thư viện và người dùng tin.
Nghề TTTV đang phải đương đầu với các thách thức do cuộc cách mạng công nghệ này đem lại để tồn tại và đáp ứng được những nhu cầu tin đa dạng, phức tạp của cộng đồng người dùng tin. Sự thay đổi này là quy luật của tự nhiên. Các trung tâm TTTV phải thay đổi để phát triển và chính đội ngũ nhân viên TTTV càng phải thay đổi để giúp các trung tâm TTTV thực hiện được sứ mệnh đó.
Ở Mỹ một người tốt nghiệp cử nhân hoặc thạc sỹ ngành TTTV không những làm được những công việc trong các trung tâm TTTV mà còn có thể làm được những công việc sau [7]:
- Xuất bản sách: họ sử dụng kiến thức về sách để lựa chọn và hiệu đính những xuất bản phẩm.
- Lãnh đạo công nghệ thông tin – CIO : là người quyết định lựa chọn những công nghệ tin học ứng dụng cho một doanh nghiệp và quản lý cách thức chia sẻ thông tin giữa các thành viên trong doanh nghiệp đó.
- Quản lý nội dung thông tin: tìm kiếm và tổ chức thông tin cho cộng đồng mạng online.
- Quản trị cơ sở dữ liệu: tổ chức, cập nhật và lưu trữ dữ liệu trên cơ sở kỹ năng lập trình.
- Môi giới thông tin: tiến hành công việc nghiên cứu và cung cấp thông tin cho đối tác.
- Mua bán các phần mềm TTTV.
- Phụ trách công việc phân loại: phân loại dữ liệu và sắp xếp thông tin vào các mục phù hợp cho các công ty thương mại điện tử.
- Quản trị Web: thiết kế, bảo trì và lập trình Web…
Điều này cho thấy, kiến thức và kỹ năng chuyên ngành TTTV không chỉ được áp dụng cho duy nhất công việc tại các trung tâm TTTV mà còn mở rộng và rất có ích cho các công việc mà kỷ nguyên số đang đòi hỏi.
2. Những yếu tố tác động đến nghề thông tin – thư viện: Các thư viện ngày nay đang phải đối mặt với hàng loạt với những thách thức phức tạp xuất phát từ nhiều lĩnh vực khác nhau của xã hội tri thức trong thế kỷ 21. Chúng bao gồm những thách thức chính sau [7]:
- Sự bùng nổ thông tin.
- Cách mạng CNTT và truyền thông.
- Sự bùng nổ các tài nguyên thông tin trên web.
- Ngân sách của thư viện ngày càng eo hẹp.
- Giá của tài liệu in ấn ngày càng cao.
- Nguồn thông tin số được sử dụng mức độ cao.
- Nhu cầu người dùng tin ngày càng cao.
- Cuộc cách mạng của các trường học ảo.
- Sự thay đổi chất lượng và số lượng của các tài nguyên thông tin.
- Xuất bản và truyền thông học thuật theo phương thức mới.
- Sự phát triển của các thư viện số, thư viện ảo, thư viện lai.
- Nhà sách trực tuyến và dịch vụ thông tin trực tuyến.
Những thách thức này còn được gọi là sự thay đổi quan điểm, tái thiết kế, chuyển đổi dạng thức của môi trường thông tin, của chức năng thư viện và của nghề thư viện. Thư viện ngày nay không chỉ là nơi lưu trữ thông tin mà còn là cổng thông tin, tăng cường tới việc truy cập thông tin của người dùng. Do vậy, thư viện sẽ phải đảm nhiệm các chức năng sau:
- Ứng dụng các hàng loạt các công nghệ mới phù hợp.
- Vi tính hoá và mạng hoá mọi hoạt động thư viện, các tài nguyên và dịch vụ thông tin.
- Xây dựng bộ sưu tập vừa ở dạng in ấn vừa ở dạng điện tử.
- Cung cấp cho người dùng tin ở công sở hay tại nhà cổng kết nối tới nội dung thông tin ở trong nước và toàn cầu.
- Chỉ dẫn và đào tạo việc sử dụng nguồn tin số.
- Cung cấp sản phẩm và dịch vụ thông tin phù hợp với yêu cầu tin.
3. Sự biến đổi vai trò của nghề thông tin – thư viện:
Trong thế kỷ 21, vai trò của nghề TTTV là phải biến đổi cho phù hợp với sự thay đổi của công nghệ, của môi trường thông tin và nhu cầu tin của cộng đồng người dùng tin. Chuyên gia TTTV không chỉ cung cấp dịch vụ thông tin truyền thống mà còn phải cả dịch vụ thông tin số trực tuyến cho người dùng tin. Họ phải bắt kịp những kỳ vọng của người dùng tin để có thể tồn tại và phục vụ họ. Chuyên gia TTTV phải trở thành người hoa tiêu tri thức để chiết xuất dữ liệu trở thành thông tin hữu ích. Một nhân viên TTTV phải là một chuyên gia thông tin, am hiểu CNTT, chuyên gia web, chuyên gia quản trị tri thức, người hoa tiêu tri thức, chuyên gia giáo dục đào tạo, nhà tiếp thị thông tin, nhà cung cấp dịch vụ thông tin…
Dưới đây là những kỹ năng và kiến thức đòi hỏi chuyên gia TTTV phải có[7]:
Kỹ năng quản lý
- Có tầm nhìn và khả năng lãnh đạo
- Thúc đẩy làm việc nhóm và phát huy khả năng của mọi thành viên trong nhóm
- Phát huy sử dụng mọi nguồn lực trong thư viện
- Thuyết phục được giá trị của dịch vụ thông tin thư viện với người ra quyết định
- Đảm nhận vai trò thành viên ban quản lý một cách tích cực và hiệu quả
- Hiểu và sử dụng hiệu quả kỹ năng hoạt động nhóm như: nhận biết được mục tiêu, sứ mệnh và hướng phát triển của thư viện
- Phát triển và thực hiện các chính sách và thủ tục để vận hành hiệu quả các chức năng thư viện
- Liên tục điều chỉnh các chương trình và dịch vụ để phù hợp với sự thay đổi của xã hội
Kiến thức về chính sách, quy tắc, tiêu chuẩn
- Luôn nắm được các vấn đề nảy sinh có ảnh hưởng tới thư viện
- Hiểu được chính sách, quy tắc và tiêu chuẩn thư viện
Kiến thức về tài nguyên và dịch vụ thông tin
- Có hiểu biết chuyên sâu về mục đích của thư viện
- Xác định được các tài liệu phù hợp với yêu cầu của người dùng
- Hiểu được nội dung thông tin và lọc được thông tin
- Tạo cho người dùng tin sử dụng dễ dàng dịch vụ của thư viện
Kỹ năng về công nghệ
- Nắm bắt được những công nghệ tương lai có tác động tới thư viện
- Sử dụng được những công nghệ mới nhất để quản lý và chuyển giao dịch vụ thông tin
- Sử dụng công nghệ để tạo ra giá trị gia tăng như: thư mục, cơ sở dữ liệu…
- Vận hành sáng tạo và cải tiến môi trường thông tin dựa trên nền tảng web
Kỹ năng tìm kiếm chuyên gia
- Tinh thông quá trình tìm tin, chiến lược tìm, kỹ thuật tìm, máy tìm và công nghệ tìm tin
- Có khả năng tìm và đánh giá được những thông tin phù hợp với người dùng
- Có kiến thức chuyên sâu về tìm kiếm thư mục, cơ sở dữ liệu và tài nguyên web
Kỹ năng giao tiếp
- Trình bày được giá trị dịch vụ của thư viện với người ra quyết định, nhân viên và người dùng tin
- Giao tiếp rõ ràng và trân trọng khách hàng cũng như đồng nghiệp
- Lắng nghe khách hàng và đồng nghiệp một cách tích cực
- Thương thảo với nhà xuất bản, khách hàng và người cung cấp hàng một cách hiệu quả
Kỹ năng trình bày
- Phát triển kỹ năng tư vấn độc giả để thúc đẩy thói quen đọc sách ở mọi trình độ
- Tăng cường nhận thức vai trò của thư viện và nhân viên thư viện trong phát triển kiến thức thông tin
- Trình bày thông tin một cách dễ tiếp nhận đối với người dùng tin
- Sử dụng các kỹ thuật khác nhau để truyền tải thông tin tới người dùng bằng nhiều hình thức học khác nhau
Dịch vụ khách hàng
- Trân trọng khách hàng
- Hiểu được nhu cầu thông tin và sở thich khách hàng
- Hướng dẫn khách hàng thu thập thông tin, cách đọc, kỹ năng nghiên cứu
- Liên tục thiết kế và tăng cường dịch vụ và sản phẩm thông tin hướng đối tượng
- Cung cấp dịch vụ cho khách hàng một cách tin cậy và cạnh tranh
Cam kết học tập suốt đời
- Có trách nhiệm phát triển sự nghiệp của bản thân
- Luôn cập nhật kiến thức và kỹ năng công nghệ mới
- Luôn tìm kiếm cơ hội học tập
- Linh hoạt thích nghi với tình hình mới, các hệ thống mới, công cụ và môi trường mới
- Chấp nhận tích cực, thích nghi và quản lý những thay đổi hiệu quả
Kỹ năng đánh giá
- Luôn phân tích, tìm hiểu và đánh giá nhu cầu dịch vụ thông tin của người dùng
- Không ngừng thiết kế và cung cấp các dịch vụ và sản phẩm thông tin giá trị gia tăng
- Đánh giá kết quả sử dụng các dịch vụ và tài nguyên thông tin
- Tiến hành nghiên cứu để tìm ra các giải pháp cho các vấn đề quản lý thông tin nảy sinh
Các kỹ năng khác
- Tiếp thị và thúc đẩy dịch vụ
- Kỹ năng quản lý dự án
- Kỹ năng quản lý thời gian
- Quản trị bản quyền số
- Kỹ năng quản trị tri thức
Đúc kết lại, chúng ta thấy một chuyên gia TTTV của thế kỷ 21 phải được trang bị đầy đủ khối kiến thức và kỹ năng thuộc các lĩnh vực khoa học sau ( xem hình dưới )[6]
Có thể khẳng định rằng, nghề TTTV đang ở tâm điểm của cuộc cách mạng đòi hỏi sự giao thoa của 3 ngành khoa học: Khoa học thư viện, Khoa học thông tin và Khoa học máy tính. Chính cuộc cách mạng này tạo nên một diện mạo mới cho nghề TTTV. Nó đóng một vai trò quan trọng trong công nghiệp nội dung số, một nền công nghiệp phát triển dựa trên nền tảng hạ tầng công nghệ thông tin vốn là thành quả của cuộc cách mạng CNTT phát triển như vũ bão đặc biệt trong hai thập niên vừa qua.
4. Áp lực thay đổi chương trình đào tạo thông tin – thư viện đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho công nghiệp nội dung số
Công nghiệp nội dung số là một khái niệm rất mới và trên thế giới, người ta cũng chưa tìm ra được một định nghĩa thống nhất. Mỗi quốc gia có cách hiểu về lĩnh vực này khác nhau. Tại hội thảo do Bộ Bưu chính Viễn thông tổ chức tại Hà Nội năm 2005 về lĩnh vực này, chuyên gia Hàn Quốc Leo Hwa Chiang đưa ra một khái niệm đơn giản là nội dung cộng với công nghệ số[6].
Phần lớn các quốc gia đều giới hạn khái niệm trong những lĩnh vực mà họ có thế mạnh hoặc có tiềm năng lớn để phát triển. Tuy nhiên, hiểu một cách nôm na, công nghiệp nội dung số là ngành công nghiệp thiết kế, sản xuất, xuất bản, lưu trữ, phân phối, phát hành các sản phẩm nội dung số và các dịch vụ liên quan, bao gồm nhiều lĩnh vực như: tra cứu thông tin, giải trí số, chăm sóc sức khoẻ qua mạng, học qua mạng…
Các sản phẩm của Công nghiệp nội dung số rất đa dạng, bao gồm văn bản, dữ liệu, hình ảnh, âm thanh…và được thể hiện dưới dạng số (byte, bit…) được lưu giữ, truyền trong môi trường điện tử như mạng máy tính, mạng viễn thông, truyền thanh, truyền hình… Nói cách khác, sản phẩm Công nghiệp nội dung số là sự tích hợp các dạng khác nhau, trộn nhiều dạng văn bản, hình ảnh và âm thanh lại với nhau, đồng thời có thể dễ dàng lưu giữ và truy xuất, tái sản xuất, nâng cấp và chỉnh sửa. Như vậy, phát triển thư viện số (TVS), số hóa tài liệu, phát triển nguồn tài liệu số, xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) toàn văn– thư mục…chính là những thành tố quan trọng đóng góp cho sự phát triển của công nghiệp này.
Để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho các dự án TVS, nhiều cơ sở đào tạo TTTV trên thế giới đã nhanh chóng phối hợp với các chuyên gia máy tính và mạng để tích hợp khối kiến thức về máy tính – thông tin học – thư viện học tạo nên chương trình đào tạo TVS. Theo Jeffrey Pomerantz (2006 )[3], trong 56 chương trình đào tạo thạc sỹ ngành TTTV tại Mỹ thì có 29 chương trình có các môn học liên quan đến TVS. Trong 29 chương trình này, có 40 môn học về TVS được xây dựng và phát triển trong khoảng 2003 – 2006. Có một số chương trình còn có thậm chí từ 2 đến 3 môn học có liên quan đến TVS. Trong các chương trình có nhiều môn học có liên quan đến TVS thì đều có một môn có nội dung Tổng quan về TVS và các môn còn lại thì có nội dung về các chủ đề đặc biệt chuyên sâu về TVS ( như: công nghệ TVS, dịch vụ TVS đặc thù…). Điển hình trong đào tạo TVS tại Mỹ là Khoa TTTV – Đại học Tổng Hợp Bắc Carolina và Khoa Khoa Học Máy Tính – Đại học Virginia Tech ở Mỹ đã kết hợp xây dựng một dự án Phát Triển Chương Trình Đào Tạo Thư Viện Số nhằm khắc phục những bất cập về đào tạo TVS ở Mỹ. Tài liệu giảng dạy được biên soạn nhằm phục vụ đào tạo cho cả hai loại đối tượng sinh viên thuộc Khoa Khoa Học Máy Tính – Đại học Virginia Tech và Khoa TTTV – Đại học Tổng Hợp Bắc Carolina. Vì vậy, việc biên soạn giáo trình do giảng viên của cả hai bên đảm nhiệm. Ngoài ra, ở châu Âu, chương trình thạc sỹ về TVS quốc tế DILL cũng được phát triển dành cho những chuyên gia thông tin làm việc trong môi trường TVS. Chương trình dựa trên sự hợp tác của 3 trường đại học châu ÂU đào tạo TTTV, bao gồm Oslo University College (Norway), Tallinn University (Estonia), and Parma University (Italy)[2]. Ở Úc, có 2 khoa Quản Trị Thông Tin thuộc 2 trường Queensland University of Technology – QUT và University of Technology, Sydney – UTS cũng phát triển môn học về TVS[8]. Nói chung, các chủ đề về TVS trong các chương trình này bao gồm: Tổng Quan TVS, Phát Triển Sưu Tập Số, Đối Tượng Số, Tổ Chức Tri Thức, Kiến Trúc Thông Tin, Không Gian Số, Các Dịch Vụ TVS, Bảo Đảm Lưu Trữ Số, Quản Lý Dự Án TVS, Nghiên Cứu – Đào Tạo TVS…[4],[5].
5. Kết luận:
Tóm lại, để sẵn sàng hội nhập vào môi trường làm việc sử dụng công nghệ số để tạo lập, xử lý, tổ chức, lưu trữ, phục vụ, quản trị thông tin số, các chuyên gia TTTV phải được trang bị đầy đủ các kiến thức và kỹ năng thuộc 3 lĩnh vực khoa học Khoa học thư viện, Khoa học thông tin và Khoa học máy tính. Nhưng để có được trình độ như vậy, đòi hỏi các cơ sở đào tạo TTTV phải thay đổi lại chính mình, xây dựng mục tiêu, phương thức và nội dung chương trình đào tạo, tìm kiếm cơ hội hợp tác – đầu tư để phát triển đội ngũ giảng viên TTTV trình độ cao, làm đội ngũ tiên phong trong cuộc .
ThS. Nguyễn Hoàng Sơn
Khoa Thông Tin – Thư Viện, ĐHKHXH&NV